Quyết định số 756/QĐ-TTg ban hành ngày 14/4/2025 nêu rõ, về định hướng quy hoạch không gian bảo tồn, tôn tạo kiến trúc cảnh quan vùng bảo vệ di tích, tại các điểm di tích thành phần khác (ngoài cụm di tích bờ bắc và cụm di tích bờ nam), thiết lập trục cảnh quan sông Bến Hải và sông Sa Lung theo hướng đông-tây. Đồng thời, kết nối các di tích: Đồn Công an Cửa Tùng, bến đò Tùng Luật (bến đò B), bến đò Cửa Tùng (bến đò A), bến đò Lũy (bến đò C) và bến đò Thượng Đông, Dục Đức của tỉnh Quảng Trị.
Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải.
Bến đò C thuộc xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh (cũ, nay là xã Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị) cũng nằm trong nhóm dự án nghiên cứu, bảo tồn các di tích thành phần thuộc Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải. Theo đó, tiến hành mở rộng, hoàn thiện, chỉnh lý hồ sơ khoa học các di tích thành phần; xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể gắn với khu vực di tích. Ngoài ra, nghiên cứu, liên kết Di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải với các Di tích quốc gia đặc biệt Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Cảng quân sự Đông Hà và các di tích khác khu vực Bắc Trung Bộ.
Nơi được các nhân chứng xác định là vị trí của bến đò C tại xã Vĩnh Giang (cũ), nay là xã Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị.
Tháng 5/1967, cuộc chiến bước vào giai đoạn ác liệt, thương binh, tử sĩ từ chiến trường chuyển ra ngày càng nhiều. Để tránh cho quân ta có cảm giác nặng nề, tâm lý bất lợi khi vượt sông vào Nam chiến đấu, phía ta mới lập thêm một bến đò mới ở thôn Cổ Trai (nay là thôn Cổ Mỹ), cách bến đò Tùng Luật hơn 1 km về phía Tây.
Bến này được đặt tên là bến đò C, chuyên vận chuyển thương binh, tử sĩ từ chiến trường ra mà không chuyển chung cùng với bến đò A hoặc B như trước. Lực lượng trực bến đò có 3 trung đội tác chiến. Việc phục vụ chiến đấu và phục vụ tiền tuyến được phân công chặt chẽ theo từng vị trí, địa bàn, tuyến đường và năng lực cụ thể. Các đơn vị Tân Sơn, Tân Mỹ, Cổ Mỹ, Di Loan đảm nhiệm công tác tải thương. Đơn vị Tùng Luật đảm nhận hai bến đò B và C.
Mặc dù thường xuyên hứng chịu bom pháo địch, nhưng từ năm 1968 - 1972, cả hai bến đò đã đưa đón trên 1.382 lượt người gồm bộ đội, dân quân, du kích, dân công hỏa tuyến. Tại đây cũng đã chuyên chở 8.112 thương binh, tử sĩ và trên 2.000 dân bờ Nam lánh nạn qua bờ Bắc, 251 chuyến hàng vận chuyển tiếp tế đảo Cồn Cỏ...
Một số nhân chứng tại thôn Cổ Mỹ, xã Vĩnh Giang (cũ, nay là xã Cửa Tùng) sống cách bến đò C xưa chỉ vài trăm mét cho hay, bến đò chuyên chở thương binh, liệt sĩ ấy còn được gọi là bến đò C, hay bến đò Lũy.
Bến đò C lịch sử
Ngôi nhà của bà Nguyễn Thị Lý (80 tuổi) ở thôn Cổ Mỹ, xã Vĩnh Giang (cũ) nay là xã Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị cách bến đò C năm xưa chỉ vài trăm mét. Bà là một trong những người từng trực tiếp tham gia những chuyến đò “vận chuyển vũ khí qua sông, đưa thương binh, tử sĩ trở về” trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Bà Nguyễn Thị Lý chỉ tay về phía bến đò C năm xưa, giờ đã không còn dấu vết.
Lưng bắt đầu khòm và mái tóc đã bạc phơ, bà Lý lặng nhìn ra bờ sông Bến Hải, lòng dâng lên những hồi ức bi thương năm xưa. Tham gia dân quân từ thời thiếu nữ, đến khoảng năm 20 tuổi thì bà Lý làm nhiệm vụ ở bến đò C. “Những năm tháng ác liệt nhất từ 1968 - 1972, tổ chúng tôi chèo đò đưa vũ khí qua bờ Nam ở phía xã Trung Giang giao cho quân ta. Sau đó, thỉnh thoảng nếu gặp đúng lúc có thương binh, tử sĩ của ta thì sẽ chở về chữa trị” chôn cất, bà Lý nói. Nhưng theo bà Lý, nhiệm vụ chính của bà và dân quân du kích địa phương là tiếp nhận thương binh, tử sĩ tại bến đò C do quân ta ở bờ bên kia chở sang.
“Chúng tôi tiếp nhận thương binh, tử sĩ từ chập choạng tối đến gần sáng. Khi đi không được dùng đèn pin, vì chỉ cần có chút ánh sáng như đom đóm là quân địch ở điểm cao Dốc Miếu biết và bắn pháo. Bởi vậy trong lờ mờ tối, chúng tôi chỉ còn biết dùng chân tay quờ quạng ngoài bãi sông sình lầy. Khi tìm thấy xác bộ đội thì nhỏ giọng thông báo với nhau “đây rồi, đây rồi” và lặng lẽ đưa về khu vực Đồng Sỏi cách bến đò khá xa để chôn cất”, bà Lý kể.
Trong ký ức của bà, những năm đầu của giai đoạn chiến tranh ác liệt này, số lượng thương binh, tử sĩ còn ít nhưng đến năm 1972 thì tăng lên rất nhiều. Lúc ấy, có khi huy động đến 300 dân quân, du kích địa phương chia theo mỗi tốp 100 người (tránh bị thương vong có thể xảy ra) để ra bến đò cáng thương binh, tử sĩ.
“Thời điểm này, có đêm tôi đi đến 11 - 12 ca liên tục. Cứ hai người một ca, cáng một thương binh hoặc tử sĩ, người khỏe còn mang kèm ba lô. Thời điểm đó, quân ta hy sinh nhiều nên cấp trên đồng ý cho dân quân thực hiện đón liệt sĩ ở địa phương nào thì chôn cất ở địa phương đó. Còn thương binh thì cố gắng cáng đi dọc theo giao thông hào đưa đến địa điểm có quân y tiếp nhận chữa trị, dưỡng thương”, bà Lý nhớ lại.
Ông Nguyễn Văn Thi kể chuyện thực hiện nhiệm vụ ở bến đò C
Còn với ông Nguyễn Văn Thi (86 tuổi) cũng ở thôn Cổ Mỹ, từng là tổ trưởng tổ đò tiếp đạn tải thương ở bến đò C, những ký ức năm xưa còn đọng mãi trong tâm trí. Ngoài những chuyến đò do mình trực tiếp chỉ huy qua lại sông Bến Hải ở bến đò C, ông Thi còn có những câu chuyện khó quên.
“Tôi nhớ mùa hè 1972, ở khu vực đồi 31 bên phía Gio Linh, sau khi phục kích đánh bộ đội ta hy sinh rất nhiều, địch bao vây không cho ta vào lấy xác. Phải mất 4 ngày sau, chúng tôi mới phá vòng vây lấy được xác khoảng 40 - 50 bộ đội”, ông Thi kể. Ông cũng không thể quên, thời điểm ác liệt nhất đó có nhiều khi thi thể bộ đội ta đã được chôn cất nhưng tiếp tục bị bom đạn, pháo kích của địch đánh cày xới, hất tung lên.
“Các anh đã hy sinh, được chôn cất nhưng tiếp tục bị oanh tạc thêm lần nữa. Là một trong những người chứng kiến và trực tiếp chôn cất các anh, tôi thật sự rất đau xót”, ông Thi nhớ lại. Bên cạnh làm nhiệm vụ chỉ huy tổ vận chuyển, ông Thi cũng là tay bắn tỉa có hạng, đã từng đi thực hiện nhiệm vụ ở Ái Tử, Quán Ngang và bắn chết 3 lính Mỹ.
Trong khi đó, bà Ngô Thị Thọ (75 tuổi), thương binh 1/4 ở thôn Tùng Luật, xã Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị cũng có nhiều ký ức về một thời đưa đò dưới mưa bom bão đạn.
Bà Ngô Thị Thọ có nhiều ký ức về một thời đưa đò dưới mưa bom bão đạn.
“Bến đò A, bến đò B chủ yếu đưa bộ đội qua sông vào Nam chiến đấu. Bến đò C thì chủ yếu đưa thương binh, tử sĩ về miền Bắc. Dù biên chế ở bến đò B nhưng tôi rất xót xa khi biết và chứng kiến bộ đội của ta hy sinh đưa về bến đò C chủ yếu ở độ tuổi còn rất trẻ, chỉ mười tám, đôi mươi”, bà Thọ buồn buồn nói.
Những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà Thọ đã trực tiếp chèo tay hàng chục chuyến đò qua về quãng sông Bến Hải rộng 300 - 350 m để đưa bộ đội vượt sông và tiếp tế vũ khí, lương thực cho miền Nam. Bà Lý, ông Thi, bà Thọ và một số nhân chứng khác một thời gắn bó với bến đò C, bến đò B anh hùng. Họ là những dân quân, du kích địa phương gan dạ, không sợ hiểm nguy trong thời chiến.
Từ đó, góp phần hình thành địa điểm tham quan về nguồn, nghiên cứu, tìm hiểu, giáo dục truyền thống cách mạng cũng như tinh thần yêu nước và khát vọng hòa bình của nhân dân ta cho các thế hệ mai sau. Đồng thời, xây dựng khu vực di tích trở thành công viên lịch sử - văn hóa đặc sắc, điểm du lịch về nguồn hấp dẫn, góp phần tôn tạo cảnh quan sinh thái hai bờ sông Bến Hải, đưa di tích trở thành một trong những trọng điểm phát triển du lịch của tỉnh Quảng Trị; gắn kết đồng bộ với hệ thống di tích cách mạng của tỉnh Quảng Trị, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và cả nước...