Vắn tắt, Yên Tử được nhiều du khách tìm về bởi sự linh thiêng và những giá trị lịch sử, văn hoá của một di tích quốc gia đặc biệt. Nay Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử-Vĩnh Nghiêm-Côn Sơn, Kiếp Bạc lại được Ủy ban Di sản Thế giới công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, một khu du lịch văn hóa tâm linh nổi tiếng toàn cầu.
Tiếng tăm Yên Tử danh thiêng nhiều ngàn năm, thời Bắc thuộc Hán Triều một vị đạo sĩ Đạo Lão tên là An Kỳ Sinh đã đến Yên Tử để tu hành và luyện đan, khi đắc đạo thì hóa thân vào một tảng đá lớn ở lưng đèo, nay khối đá dựng đứng hình người vẫn gọi là tượng An Kỳ Sinh. Trên Yên Tử có chùa chiền thờ Phật từ thời nhà Lý, Nhà sư nổi tiếng khi ấy là Thiện Quang. Vua Lý Huệ Tông đã nhiều lần “chiêu hiền-đãi sĩ”, tiến lễ, mời nhà sư này về làm quốc sư, nhưng nhà sư nhất quyết không rời Yên Tử.
Thời Trần, ông vua đầu tiên là Trần Thái Tông, năm 1237 đã đến Yên Tử yết kiến nhà sư Phù Vân với tâm nguyện xuống tóc tu hành. Nhưng ngày đó thái sư Trần Thủ Độ dày công can gián, lại được đại đức Phù Vân kiên trì khuyên giải…nên Nhà vua mới bỏ ý định xuống tóc ở Yên Tử, mà hồi cung. 62 năm sau (1299), theo di nguyện của tiên đế, vua Trần Nhân Tông đã truyền ngôi cho hoàng tử Trần Anh Tông, tiếp bước gia đạo thượng sơn Yên Tử tu hành, lập nên thiền phái trúc lâm, nhập thế và đã hóa Phật. Yên Tử được coi là phúc địa thứ 4 của đất Việt, kinh đô của Phật Giáo Việt Nam, nơi khởi nguồn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử thì đã rõ.
Danh sơn Yên Tử.
Song danh sơn Yên Tử thì còn nhiều người chưa biết. Địa lý núi Yên Tử trong cánh cung Đông Triều cao 1.068m, giàu tính bảo tàng địa chất, vách núi phía Tây còn ngấn nước vết sóng biển bào mòn, hang đá táng tụng vô số vỏ sò và ốc biển…Huyền thoại núi Yên Tử cùng họ hàng nhà núi từng chìm sâu dưới đáy đại dương. Khi Ngọc Hoàng cho nhà núi ngoi lên mặt nước, thì Yên Tử núi con phạm thượng trồi lên cao hơn núi mẹ là Yên Phụ, Ngọc Hoàng xung thiên, sai Thiên Lôi trị tội. Vào một đêm mưa gió kinh hoàng, lưỡi búa tầm sét của Thiên thần đánh núi con đầu chẻ làm đôi (từ Sông Cấm nhìn lên quả thấy đỉnh Yên Tử hai ngọn), nên núi Yên Tử tích xưa còn có tên là Núi Xẻ.
Núi Yên Tử còn có tên khác là Bạch Vân Sơn, tương truyền trên một gò cao có huyệt đất thiêng, lập đàn ở đây có thể “hô phong hoán vũ”. Huyệt đất ấy hiện dưới móng Chùa Đồng. Đỉnh núi Yên Tử là mái nhà chung của 3 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng. Sườn Đông Yên Tử hướng ra biển bình độ cao dần, dày lớp đất mặt cây rừng tốt tươi. Còn sườn Tây Yên Tử dốc đứng, địa hình hiểm trở. Sườn Đông-sườn tây Yên Tử cũng có nét giống Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn “bên nắng đốt bên mưa quây”.
Rừng Đông Yên Tử (rừng quốc gia) có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2.783ha, có Khe Song và Thác Bạc cảnh quan, cây rừng hỗn giao với 5 ngành thực vật gồm 830 loài, trong đó có 38 loài thực vật quý hiếm. Riêng nhóm cây thuốc có khoảng 300 loài, với nhiều loại cây có giá trị cao như: Ngũ gia bì gai, kim tuyến, cát sâm, bách xanh, đại kế, hoàng tinh hoa trắng, hà thủ ô đỏ, bổ béo đen, giảo cổ lam, rau sắng, lan một lá, bảy lá một hoa, sâm cuốn chiếu, ba gạc Ấn Độ, trầu một lá... Đông Yên Tử có 20 loài thực vật quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 6 loài được ưu tiên bảo tồn và phát triển. Năm 2016, rừng quốc gia Yên Tử đã công bố 144 cây đủ tiêu chí là cây Di sản gồm: 1 cây đa tía, 1 cây thị, 102 cây hồng tùng (xích tùng), 10 cây thông nhựa khổng lồ, 21 cây mai vàng đặc hữu Yên Tử và 9 cây đại cổ thụ. Hệ động vật cũng đa dạng và phong phú với 151 loài động vật ở cạn có xương sống. Trong đó, có 20 loài được xếp vào Sách Đỏ Việt Nam, như: Voọc mũi hếch, sóc bay lớn, ếch ang, ếch gai, thằn lằn cá sấu rừng...
Tây Yên Tử núi ở độ dốc cao, đất phong hóa khô cằn, nhưng lại thích nghi với loại cây quí, 11.766,3ha rừng tự nhiên chứa đựng đa dạng sinh học, là khu rừng nguyên sinh hiếm hoi còn giữ được nét hoang sơ tiêu biểu của cả vùng Đông Bắc. Tại đây, xác định được 5 kiểu thảm thực vật chính: ở độ cao dưới 100m có trảng cỏ và cây bụi; ở độ cao 100-200m là trảng hóp xen cây gỗ nhỏ và tre nứa; ở độ cao 200-900m là kiểu rừng kín thường xanh, cây lá rộng thường xen cây lá kim, trên 900m là kiểu rừng cây gỗ lá rộng. 1.165 loài thực vật bậc cao, thuộc 677 chi, 187 họ trong 6 ngành thực vật, trong đó có 57 loài cây có nguy cơ tuyệt chủng đã được đề cập trong sách đỏ VN và sách đỏ thế giới. Hệ thực vật có trên 40% số loài cây dược liệu, nhiều loài cây thuốc quý như: trầm hương, ba kích, thổ phục linh… Có 4 loài thực vật quý hiếm gồm: lim xanh, kim giao, sa nhân, vù hương, đặc biệt quý hiếm như: tùng la hán, hoàng đàn, trúc bụng phật, thông 2 lá dẹt... còn có 2 cây chò nâu đại thụ 600 tuổi. Rừng Yên Tử có 25 bộ, 61 họ, 154 loài thuộc các lớp thú, chim, bò sát, ếch nhái. nhiều loài động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam như: cu li nhỏ, voọc đen má trắng, sói lửa, gấu ngựa, khỉ vàng, hươu vàng, gà tiền mặt vàng, gà lôi trắng, rùa vàng, rắn hổ mang chúa, cá cóc sần Việt Nam, ếch Yên Tử… Tây Yên Tử, một vùng sơn khu đồi núi trập trùng với 20 thác ghềnh lớn nhỏ, 7 suối chính từ ngọn Yên Tử chảy xuống, tạo phong cảnh đẹp như: thác Giót, thác Ba Tia, bãi Đá Rạn, Ao Vua, Hồ Tiên, suối Nước Vàng, suối Nước Trong...
Yên Tử mỹ nữ.
Việt Nam có trên 80 vạn đồng bào dân tộc Dao, sinh sống phần nhiều ở vùng rừng Đông Bắc và Tây Bắc bộ. Người Dao ở hai bản là Năm Mẫu phía Đông và Tuấn Mậu phía Tây Yên Tử có nét khác biệt với các địa phương bạn, phụ nữ đa số da dẻ trắng trẻo, dáng cao, người thắt đáy lưng ong; tính tình đoan trang, hoạt bát, nói năng nhỏ nhẹ dễ nghe. Dân bản Mậu còn sang tai nhau huyền thoại: ngày xưa bản mình có một chiếc giếng khơi trên lưng đồi tứ mùa nước cả, mặt nước trong đến mức soi được rõ mặt người như gương. Dân gọi là giếng gương trời. Hình như phụ nữ tắm nước giếng này mà “thơm da thắm thịt”, trai lấy gái xinh làm vợ vốn khó chiều; gái đẹp lại nguy cơ trai tài làng bên nẫng mất. Nên trai bản nảy tính ích kỷ, đã xúi nhau lấp giếng; nhưng kỳ lạ tuy không còn nước giếng ấy tắm táp, mà gái làng Mậu vẫn cứ “sắc nước hương trời”. Người địa phương có ngạn ngữ “Gạo bản Gà, đàn bà làng Mậu”. Bản Mậu (khi chưa nhập phường Tây Yên Tử) bản làng với 330 hộ dân mà có tới 3 cô gái được vinh danh sắc đẹp Việt Nam gồm: hoa hậu Trịnh Thị Hương, đạt danh hiệu hoa hậu các dân tộc Việt Nam; Khiếu Thị Huyền Trang, từng đoạt danh hiệu nhất cuộc thi người mẫu Việt Nam; Bàn Thị Giàng, từng đạt giải người đẹp miền núi phía Bắc Việt Nam.
Ở bản Năm Mẫu có Triệu Thị Thắm và Lý Thị Hà từng đạt hoa hậu Tuần Châu; Đặng Thị May, Triệu Thị Lý, Triệu Khánh Ly, Trương Thị Hậu... từng đăng quang các giải trong cuộc thi người đẹp các dân tộc vùng Đông Bắc. Cô Trương Thị Bích, tuy không tham gia các cuộc thi người đẹp, nhưng với cơ thể nở nang, cao ráo, nước da trắng hồng, mái tóc dài hàng mai xoan tự nhiên…hút hồn bao lính trẻ của Trung đoàn 5, đơn vị huấn luyện quân đi B thời đóng quân ở Yên Tử. Bà Trương Thị Thoại, già làng bảo, đất này linh khí, phụ nữ sinh trưởng ở đây thì đẹp, nhưng gái làng lấy chồng xa đẻ con ra không còn đẹp nữa. Vì ở đây có nguồn nước khoáng tự nhiên, từ trong lòng núi chảy ra như dòng sữa mẹ, uống sữa mẹ núi trai thì tài ba-gái thì nhan sắc. Năm 1905, người Pháp đã xây dựng một nhà máy nước ở vùng rừng này, để cấp nước cho thành phố Hải Phòng. Nay người dân xa gần vẫn chen chúc nhau mang xô thùng đến múc nước về ăn, chính quyền phải điều phối chỉ cho mỗi người một lần không lấy quá 100 lít, tránh mất trật tự.
Còn có tục truyền, những cô gái người dân tộc thiểu số vùng núi cao xinh đẹp này, có nguồn gốc hậu duệ của cung tần mỹ nữ Trần Triều. Trên 700 năm trước, 300 cung tần mỹ nữ theo chân Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đến vùng rừng này tu hành, nhưng không được chấp thuận cô thì tuẫn tiết-cô thì nương tựa vào tiều phu, vào nương rẫy, nhận thổ dân làm mẹ nuôi. Rồi họ được dựng vợ gả chồng tại khe bản, sinh con đẻ cái đời trước truyền đời sau, cháu chắt thành gái bản nhưng vẫn theo gen cung tần mỹ nữ thì rất là xinh đẹp…Các phượt thủ, du khách khám phá thêm danh sơn-mỹ nữ Yên Tử, trên đây chỉ là đôi nét gợi mở/.
Một số hình ảnh Yên Tử danh sơn-mỹ nữ:
Vũ Phong Cầm