Từng là niềm tự hào của các làng nghề vùng châu thổ Bắc Bộ, rối nước nay chỉ còn được duy trì ở vài phường rối, trong khi nhiều không gian diễn xướng truyền thống bị thu hẹp bởi quá trình đô thị hóa. Theo thống kê của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, đầu thế kỷ XX, Thủ đô có hơn 20 phường rối, nhưng đến nay chỉ duy trì thường xuyên được ở Đào Thục, làng Yên hay Nguyên Xá. Số còn lại hoặc hoạt động cầm chừng, hoặc đã không còn lớp kế cận.

Không gian thực hành nghệ thuật trình diễn dân gian múa rối nước Đào Thục
Nghề rối vốn phụ thuộc nhiều vào không gian làng: ao làng, thủy đình, sân đình. Khi đất đai thay đổi, rối mất luôn “sàn diễn tự nhiên”. Con rối gỗ biểu diễn dưới nước dễ mục, mỗi năm phải thay nhiều lần. Chi phí duy trì phường rối lại chủ yếu dựa vào nguồn Nhà nước hỗ trợ, trong khi hoạt động biểu diễn cộng đồng gần như không mang lại thu nhập đáng kể.
Trong bối cảnh công nghiệp văn hóa đang trở thành động lực tăng trưởng mới, nghệ thuật rối Việt Nam đối mặt đồng thời cả cơ hội lẫn thách thức sống còn: Làm thế nào để vừa bảo tồn giá trị truyền thống, vừa mạnh dạn đổi mới sáng tạo, đưa nghệ thuật rối thực sự hòa vào đời sống đương đại?
- Khu di tích lịch sử đền thờ các anh hùng liệt sĩ Đường 20 Quyết Thắng tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức lễ truy điệu và an táng các hài cốt liệt sĩ
- Lan tỏa tinh thần rèn luyện và đoàn kết từ phong trào thể dục thể thao tỉnh Quảng Trị
- Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Mở ra giai đoạn phát triển toàn diện, bền vững gắn với gìn giữ văn hóa, lịch sử và nâng cao đời sống nhân dân
Bài toán đặt ra không chỉ cho các nghệ sĩ, nghệ nhân mà còn cho nhà quản lý, các phường rối và cả cộng đồng sáng tạo – khi sự tồn vong, sức lan tỏa và đóng góp của nghệ thuật rối cho kinh tế, giáo dục, du lịch, quảng bá văn hóa phụ thuộc vào khả năng phát triển như một ngành công nghiệp đặc thù, biết thích ứng, chuyển mình nhưng không đánh mất bản sắc cốt lõi.
Dù nghệ thuật rối nước hấp dẫn khán giả, du khách quốc tế như vậy, nhưng các phường rối nước dân gian tại không gian trình diễn truyền thống ở địa phương vẫn phải lay lắt duy trì hoạt động, gồng mình để bảo tồn tinh hoa rối nước.

Việc bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa rối không phải chỉ bảo tồn các trò diễn cổ trong các nhà hát, mà còn cần bảo tồn không gian biểu diễn rối truyền thống tại các làng quê
Nghệ nhân Nguyễn Viên ở phường rối Chàng Sơn (Hà Nội) chia sẻ: “Phường rối nước Chàng Sơn có điểm khác biệt ở chỗ các nghệ nhân dùng dây để điều khiển rối thay vì dùng sào như ở các địa phương khác. Việc thiết kế sân khấu nước điều khiển bằng dây đòi hỏi nhiều thời gian, sân khấu biểu diễn cố định nên không thể linh hoạt mang sân khấu ra khỏi địa phương. Bởi vậy, nếu không có các suất diễn thường xuyên tại địa phương, các nghệ nhân lại không thể mang sân khấu đi diễn tại nơi khác, các nghệ nhân sẽ không có đất diễn”
Múa rối là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, mang đậm bản sắc và tâm hồn Việt. Từ tiếng trống hội bên ao làng đến ánh sáng rực rỡ của sân khấu hôm nay, múa rối vẫn luôn là biểu tượng của sự sáng tạo, khéo léo và tinh thần lạc quan của người Việt Nam.
Đó là nhận định của bà Lê Thị Ánh Mai, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, tại tọa đàm khoa học với chủ đề “Bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật rối trong cuộc sống đương đại” diễn ra ngày 10/11 vừa qua tại Hà Nội.
“Điều quan trọng nhất là nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động của các đoàn, các nhóm nghệ thuật rối: Từ khâu tổ chức, dàn dựng, đào tạo nghệ sĩ đến chiến lược quảng bá, hợp tác với du lịch và giáo dục. Khi các đơn vị nghệ thuật có phương thức hoạt động rõ ràng, tự chủ và sáng tạo, múa rối sẽ có cơ hội thực sự trở lại mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng” bà Lê Thị Ánh Mai, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội nêu rõ.
Giữ hồn dân gian trong nhịp sống hiện đại
Việc bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa rối không phải chỉ bảo tồn các trò diễn cổ trong các nhà hát, mà còn cần bảo tồn không gian biểu diễn rối tại các làng quê. Các tích trò trong chương trình “Múa rối nước cổ truyền” của Nhà hát Múa rối Thăng Long đều bắt nguồn từ đời sống sinh hoạt và văn hóa tâm linh của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, hiện có 17 tích trò: “Bật cờ”, “Tễu giáo trò”, “Múa rồng”, “Em bé chăn trâu thổi sáo”, “Cày cấy”, “Câu ếch”, “Đánh cáo bắt vịt”, “Bắt cá”, “Vinh quy bái tổ”, "Sư tử tranh cầu”, “Múa phượng”, “Lê Lợi trả gươm”, “Nhi đồng hý thủy”, “Đua thuyền”, “Múa lân”, “Múa tiên”, “Tứ linh”. Du khách đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới đều thích thú, tò mò, mong muốn tìm hiểu về bản sắc, con người Việt Nam. Và khi đến với Múa rối Thăng Long họ được thỏa mãn khi chứng kiến câu chuyện lịch sử, văn hóa truyền thống gói gém qua hình ảnh của những chú rối.

Nhà hát múa rối Thăng Long – nơi tôn vinh nghệ thuật múa rối nước độc đáo
Trong khi đó, rối nước trong đời sống văn hóa ở các làng quê, không gian văn hóa gốc của nghệ thuật rối nước, nơi mang trong mình sự thuần khiết và trong sáng của nền văn minh lúa nước đồng bằng Bắc Bộ với hàng trăm tích trò đang có nguy cơ mai một ngay trong không gian truyền thống.
Song song, các phường rối đang đề xuất mô hình đào tạo kép: nghệ nhân truyền nghề kết hợp sự hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà hát lớn. Mô hình này được kỳ vọng giúp thanh thiếu niên thấy nghề rối vừa gần gũi, vừa có lộ trình nghề nghiệp rõ ràng.
Hà Nội đang đứng trước cơ hội lớn để đưa múa rối trở thành biểu tượng văn hóa - sáng tạo của Thủ đô trong thời kỳ mới. Khi di sản được đặt đúng vị trí trong chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, khi nghệ nhân được hỗ trợ, không gian biểu diễn được mở rộng và khán giả trẻ được nuôi dưỡng, múa rối không chỉ được bảo tồn mà còn có thể tái sinh mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nghệ thuật rối cũng đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là sự cạnh tranh khốc liệt của các loại hình nghệ thuật hiện đại, sự thay đổi thị hiếu công chúng và áp lực từ kinh tế thị trường. Do đó, việc bảo tồn, phát huy di sản rối trong bối cảnh hiện đại phải gắn liền với phát triển công nghiệp văn hóa, lấy sáng tạo làm trung tâm, kết nối giáo dục, du lịch và truyền thông để nghệ thuật rối trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế văn hóa của Thủ đô.